Góc học tập tiếng Anh là gì

– Bài mới hơn –

Chiêm Tinh Học Nội Môn Nền Khoa Học Tiếng Anh Là Gì ? Hội Nghị Khoa Học Tiếng Anh Là Gì ? Lực Là Gì, Lực Tiếng Anh Nghĩa? Tư Duy Tuyến Tính Là Gì? Hỗ Trợ Học Ielts Tốt Hơn

Có thể hiểu rõ hơn thì Nghiệp chính là những hệ quả nhận được thông qua những hành vi, nhận thức, lời nói, suy nghĩ mà con người đã gieo ở quá khứ. Tùy vào “nhân” được gieo trước đó mà con người có thể được định nghiệp tốt hoặc xấu.

Vì thế mà có thể khẳng định con người là chủ nhân của nghiệp quả, là yếu tố quyết định nên nghiệp quả, việc nhận nghiệp tốt hay nghiệp xấu là do mỗi con người chúng ta quyết định.

2. Nguồn gốc của Nghiệp

Ắt hẳn khi nhắc đến thuật ngữ này, người ta sẽ nghĩ ngay nguồn gốc xuất từ Phật Giáo hay đến từ Ấn Độ. Nhưng thực sự Nghiệp đã xuất hiện từ rất lâu, có thể là từ thuở sơ khai của Trái Đất và tồn tại cho đến bây giờ.

Nghiệp có từ rất lâu đời trước đó, trước cả khi đất nước Ấn Độ hay Phật Giáo ra đời. Chỉ là xét trên thế giới giữa các dân tộc với nhau thì người Ấn Độ có phần nghiên cứu sâu hơn về Nghiệp. Vì thế mà Ấn Độ được xem là một đất nước có chứa rất nhiều tài liệu cũng như những sự hiểu biết về nghiệp thông qua các cuốn sách của Ấn Độ Giáo, Kinh Vệ Đà hay Phật Giáo.

Ta vẫn nên phân biệt chữ “Giáo” và chữ “Đạo”. “Đạo” chính là “Giáo” nhưng “Giáo” chưa chắc đã là “Đạo” mà nó có thể hiểu như phong cách sống hay những hệ tư tưởng của Ấn Độ được du nhập và hình thành trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Hơn hết, nó có “giáo” có nguồn gốc từ nền văn minh Lưỡng Hà và thung lũng Indus thuộc Ấn Độ trong khoảng thời gian từ 4000 cho đến 1500 TCN.

Vì thế mà những nền văn minh cổ đại như Ai Cập đã rất phát triển về xã hội và ứng dụng Nghiệp để duy trì sự công bằng, luật lệ, đạo đức và trật tự xã hội. Hơn hết, Nghiệp còn được người cổ đại ứng dụng trong khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ.

Một trong những “Thủy tổ của Chiêm Tinh Học” là người Sumarian đã có những hiểu biết về vấn đề này thông qua bầu trời và chiêm tinh. Với họ, nghiệp là “mu”, là quyền lực tối thượng nhất mà chỉ có người đứng đầu mới có và được sử dụng, ban phát cho người dân.

Ngay tại Ai Cập cổ đại, Nghiệp được gọi là “Maat”, hiện thân là một vị nữ thần rất quyền lực trong văn hóa người Ai Cập cổ, là vị thần tượng trưng cho công lý, trật tự và sự bảo hộ.

Như cách nói của người hiện đại ngày nay thường nói rằng “Coi chừng bị nghiệp quật” thì người Ai cập cổ đại xưa sẽ có lối nói rằng “Thần Maat sẽ bỏ rơi mày”. Điều đó cũng thể hiện rằng, nghiệp về bản chất nó đã có từ rất lâu đời với mầm mống từ thời cổ đại, mặc dù tên gọi của nghiệp giữa các thời kỳ hay các nền văn hóa là khác nhau nhưng bản chất của nó thì như một. Có một sự thú vị đó là người Hy Lạp gọi thần “Maat” của Ai Cập là “Ka Maat” phát âm giống với “Karma” (Nghiệp) trong tiếng Anh hiện nay.

Ở Trung Quốc thời cổ đại, trước thời Khổng Tử vài trăm năm thì có Lão Tử (老子, 601 – 500 TCN) đã có những nhân định về nghiệp trong cuốn sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (太上感应篇)của ông. Đọc cuốn sách của Lão Tử có thể thấy quan điểm về nghiệp của ông cũng có nét tương đồng với Ấn Độ giáo hay Phật giáo nhưng khác ở chỗ là không có những quan điểm về tiền kiếp hay luân hồi.

Với Kỳ Na Giáo thì họ định nghĩa về nghiệp rất khác so với Ấn Độ, Phật giáo hoặc thậm chí là khác với văn hóa phương Tây, họ xem nó như là “những hạt bụi lang thang khắp vũ trụ” và chúng ta là những linh hồn, nếu làm điều xấu thì sẽ bị chúng bám vào làm ảnh hưởng đến cuộc đời chúng ta. Vì thế mà dân gian cũng thường nói người tu hành thường “không vướng bụi trần”.

Đối với văn hóa phương Tây, nó cũng được xuất hiện nhiều lần trong Kinh Thánh như Matthew, 26, câu 52; Galatians, 6, câu 7,8. Tuy vậy mà một số nghiên cứu gần đây cho thấy rằng nghiệp đang dần bị loại bỏ ra khỏi Kinh Thánh từ những thế kỷ đầu sau Công Nguyên.

3. Nghiệp từ góc nhìn Chiêm Tinh học

3.1 Chiêm Tinh học là gì?

Carl Jung đã từng nói rằng “Ta được sinh ra trong một thời điểm nhất định, ở một nơi nhất định, và như những thùng rượu nho được ủ qua hàng năm trời, chúng ta thấm đẫm những đặc tính của năm tháng và mùa ta sinh ra, Chiêm Tinh học không bàn gì khác ngoài việc ấy cả.”.

Từ thử khai thiên lập địa, con người như những thực thể cô đơn giữa vũ trụ bao la và rộng lớn này. Cũng vì thế mà những người cổ đại thường hay nhìn lên bầu trời, ngắm các vì sao tỏa sáng trong màn đêm, từ đó mà họ cũng có được câu trả lời hay những sự chỉ dẫn của các vì sao.

Chiêm tinh học là một công trình chuyên nghiên cứu về sự dịch chuyển của các hành tinh trong hệ mặt trời cũng như các chòm sao, thiên thể có trên bầu trời. Từ đó mà tìm ra được mối liên hệ giữa các hành tinh ấy có tác động như thế nào đến con người trên trái đất này. Vậy, trong Chiêm Tinh Học có thể hiện “Nghiệp” hay không?

Với một nhà nghiên cứu Chiêm Tinh Học có lẽ sẽ rất quen thuộc với trục La Hầu và Kế Độ (Long Thủ/ Vĩ Thủ theo cách gọi phương Đông). Và đây chính là sự thể hiện của Nghiệp trong Chiêm Tinh.

3.2 Các loại nghiệp quả

Theo như những nghiên cứu về rất nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới. Theo tôi, quan niệm về ” nghiệp trong Phật giáo là quan niệm hợp lý và đầy đủ nhất. Vì thế, xin trích dẫn từ khái niệm “nghiệp” của Phật giáo để giúp ta nhận định rõ hơn về lá số chiêm tinh cũng như ảnh hưởng của nghiệp đến với lá số ấy.

Theo Phật giáo, mỗi con người chúng ta có 3 loại nghiệp đó là:

– Nghiệp Tích Trữ (Sanchita Karma, tiếng Phạn là सञ्चित): Đây là loại tổng hợp, kết hợp giữa 2 loại nghiệp đó là Nghiệp Thụ Hưởng và Nghiệp Tạo Ra hay cũng là sự tích tụ qua nhiều kiếp sống.

– Nghiệp Thụ Hưởng (Prarabdha Karma, tiếng Phạn là प्रारब्धकर्मन्): Loại nghiệp này là 1 phần của Nghiệp Tích Trữ để tạo ra được sự hiện diện và thực tại bản thân ta trên cõi đời này. Có thể hiểu như là bạn được sinh ra với một ông bố, bà mẹ như thế, trên quê hương đó, vì thế là tùy vào nghiệp của bạn ở các kiếp sống trước mà sẽ quyết định kiếp sống ở kiếp này.

– Nghiệp Tạo Ra (Kriyamana Karma, tiếng Phạn là क्रियमाणकर्म): Đây là loại nghiệp dựa trên những hành động, suy nghĩ, lời nói của chúng ta mà tạo nên những là những “nghiệp trong cuộc sống hiện tại.

Nghiệp Thụ Hưởng được xem như cố định và không thể thay đổi còn 2 loại nghiệp còn lại là linh hoạt, có thể thay đổi thông qua mỗi người.

– Lá số chiêm tinh của con người trong Chiêm Tinh Học chính là một dạng để có thể thấy được Nghiệp Thụ Hưởng. Vì thế mà những lá số của chúng ta dựa trên sự chuyển động của các hành tinh khi chúng ta sinh ra là sự thể hiện của Nghiệp Thụ Hưởng ở cuộc đời này.

– Nghiệp Tạo Ra là loại nghiệp dễ thay đổi nhất. Còn Nghiệp Tích Trữ thì chỉ có thể khi một người nào đó qua đời và phải dựa vào những người còn sống để có thể thay đổi giúp họ. Chẳng hạn như một người vừa qua đời, chúng ta làm ma chay, cúng kiếng đầy đủ rồi mời thấy tế lễ, các sư thầy về tụng kinh cầu siêu để nghiệp của người chết nhanh chóng được hóa giải và đi siêu thoát.

– Có nhiều người thường nhầm lẫn giữa Nghiệp Thụ Hưởng và Nghiệp Tạo ra. Vì thế mà cho rằng “Định mệnh” là điều có thể dễ thay đổi, từ đó ỷ lại, ngạo mạn và luôn cho rằng ta vẫn luôn có thể thay đổi số phận. Nhưng không, những thứ đã là thuộc về “Định mệnh” thì dù cho có thay đổi như thế nào cũng sẽ vô ích.

3.3 Ví dụ thực tiễn

Bạn được bố mẹ chiều chuộng, cho tiền tiêu (Nghiệp thụ hưởng). Nhưng bạn lại tiêu xài phung phí dẫn đến không những hết tiền mà còn nợ người khác (Nghiệp tạo ra)

Bạn không thể tránh được một vụ tai nạn đụng xe (Nghiệp thụ hưởng), nhưng bạn vẫn có thể lựa chọn cách phản ứng đối với tai nạn đó (Nghiệp tạo ra)

Bạn có người thân qua đời (Nghiệp thụ hưởng của bạn và họ), nhưng thái độ bạn đối xử lúc họ còn sống hay cách bạn tổ chức tang lễ cho người đó sẽ quyết định bạn là người như thế nào, có hậu hay vô hậu (Nghiệp tạo ra)

Bạn làm từ thiện (Nghiệp tạo ra), người khác nhận được sự giúp đỡ của bạn (Nghiệp thụ hưởng của họ)

Hai người yêu nhau rồi cưới nhau (Nghiệp thụ hưởng của cả 2). Nhưng tình cảm có bền lâu và hạnh phúc hay không (Nghiệp tạo ra của 2 người)

Hai người gặp nhau, yêu nhau rồi cưới nhau (Nghiệp Thụ Hưởng của 2 người), nhưng giữ được quan hệ đó lâu bền hay không thì đó là “Nghiệp Tạo Ra” của 2 người.

Một người mang thai (Nghiệp thụ hưởng) nhưng sinh ra hay phá thai (Nghiệp tạo ra + Nghiệp thụ hưởng của đứa bé ấy)

Qua đó, có thể thấy, Nghiệp là một quan niệm đã có từ rất lâu đời, xuất hiện từ thuở xa xưa. Và đối với Chiêm Tinh Học nói riêng hay các bộ môn “Tử vi lá số” khác nói chung thì Nghiệp luôn tồn tại có tính biện chứng để lý giải về số phận hay định mệnh của một con người, nhất là trong lĩnh vực tiên tri, bói toán như đã kể ở trên.

– Bài cũ hơn –

9 Quyển Sách Chiêm Tinh Học Hay Dễ Ứng Dụng Vào Cuộc Sống Tự Học Chiêm Tinh Cơ Bản Giáo Trình Học Tiếng Latinh Phương Pháp Học Từ Vựng Tiếng Anh Dựa Vào Gốc Tiếng Latin. Học Tiếng Trung Cơ Bản Với Bảng Chữ Cái Tiếng Trung