U tuyến giáp thể nhú: Tiến triển bệnh lý và phương pháp chẩn đoán | Vinmec

3.1 Bệnh sử

Biểu hiện ban đầu phổ biến nhất của u tuyến giáp thể nhú là một nốt sần có thể cảm thấy ở cổ. Do đó, đối với bất kỳ bệnh nhân nào có khối u tuyến giáp mới hình thành và phát triển gần đây, bác sĩ cần ghi nhận bệnh sử y tế kỹ lưỡng để xác định bất kỳ yếu tố nguy cơ hoặc triệu chứng nào có liên quan. Trong đó, đặc biệt chú ý đến yếu tố tiếp xúc với bức xạ ion hóa và thời gian tồn tại của bức xạ. Đồng thời, tiền căn gia đình về bệnh ung thư tuyến giáp cũng cần lưu ý.

Bên cạnh đó, một số bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp có triệu chứng ho dai dẳng, khó thở hoặc khó nuốt. Đau hiếm khi là một dấu hiệu cảnh báo sớm của ung thư tuyến giáp. Các triệu chứng khác như liệt dây thanh âm, ho ra máu là rất hiếm gặp.

Tại thời điểm chẩn đoán, có khoảng 10-15% bệnh nhân u tuyến giáp thể nhú đã có di căn xa đến xương và phổi. Trong khi đó, những bệnh nhân này ban đầu lại được chẩn đoán nhầm với các bệnh lý tại chỗ ở phổi hoặc xương khớp, ví dụ u phổi, u xương hay gãy xương bệnh lý.

3.2 Thăm khám

Bác sĩ lâm sàng thăm khám tuyến giáp bằng cách sờ nắn vùng cổ của bệnh nhân để đánh giá kích thước và mật độ của tuyến giáp. Song song đó, sự hiện diện của bất kỳ nhân hay nốt ở tuyến giáp cũng cần ghi nhận.

Dấu hiệu chính của u tuyến giáp thể nhú là một nốt sờ thấy, thường đơn độc tại khu vực tuyến giáp và có các đặc điểm sau:

  • Không gây đau đớn
  • Có mật độ cứng chắc
  • Kích thước trung bình dưới 5 cm
  • Ranh giới không xác định
  • Có tính cố định đối với các mô xung quanh
  • Di chuyển với khí quản khi nuốt

Nếu u tuyến giáp thể nhú đã di căn thì có thể sờ thấy các hạch bạch huyết ở vùng cổ một bên hay ở cả hai bên. Ngoài ra, một số bệnh nhân còn có cảm giác căng tức hoặc đầy ở vùng cổ, khàn giọng hoặc có dấu hiệu chèn ép khí quản hay thực quản.

3.3 Diễn tiến bệnh

U tuyến giáp thể nhú chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tất cả các loại ung thư ở người lớn. Tuy nhiên, ở nữ giới, ung thư tuyến giáp là loại ung thư phổ biến đứng hàng thứ năm. Trong số tất cả các bệnh ung thư tuyến giáp, hầu hết là u tuyến giáp thể nhú và tỷ lệ là cao hơn ở những vùng có phổ biến bệnh bướu cổ.

Tiên lượng ở bệnh nhân u tuyến giáp thể nhú có mối liên quan đến tuổi, giới tính và giai đoạn. Tiên lượng sẽ tốt hơn ở nữ giới và ở những bệnh nhân trẻ hơn 40 tuổi. Đồng thời, tỷ lệ sống ít nhất là 95% với các phương pháp điều trị thích hợp. Trái ngược với nhiều bệnh ung thư khác, u tuyến giáp thể nhú hầu hết có thể cứu chữa được. Lý do là nhờ vào tốc độ diễn tiến bệnh chậm nên có tiên lượng tương đối khả quan. Tỷ lệ sống trung bình sau 10 năm cao hơn 90% và tỷ lệ di căn xa, tức tế bào ác tính đi đến phổi hoặc xương, là rất hiếm.

Tuy nhiên, nếu phát hiện bệnh khi ung thư tuyến giáp đã gây ra các triệu chứng do chèn ép hoặc xâm nhập khối ung thư vào các mô xung quanh, theo thứ tự thường gặp là phổi, xương, não, gan và các vị trí khác, tiên lượng đã trở nên nặng nề.