Dân vận khéo là phải thực sự thực hành dân chủ, kỷ cương, công khai minh bạch và trách nhiệm

DÂN VẬN KHÉO LÀ PHẢI THỰC SỰ THỰC HÀNH DÂN CHỦ,

KỶ CƯƠNG, CÔNG KHAI MINH BẠCH VÀ TRÁCH NHIỆM

Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng tháng 8/1945 thành công, khai sinh ra nước “Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Đó là nhà nước “Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Kỷ niệm 60 năm bài báo “DÂN VẬN” , Bài báo ra đời trong hoàn cảnh cả nước đang ra sức “kháng chiến – kiến quốc”; mục tiêu cách mạng nước ta lúc đó là “giành độc lập dân tộc”; nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị; là công chức làm việc ở cơ sở, nơi hàng ngày thường xuyên tiếp xúc và thực thi nhiệm vụ do cấp trên phân giao, chịu trách nhiệm “vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Thành phố và Trung Ương”. Có thể nói cơ sở là nơi “chịu khó khăn trăm lần”. Để hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi nhận thức “Dân vận khéo là phải thực sự thực hành dân chủ, kỷ cương, công khai và trách nhiệm”.

Bác Hồ thăm hợp tác xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên năm 1954 – Ảnh tư liệu 1. Dân chủ là phương pháp cơ bản của dân vận: “Danh nhân văn hoá” – “Anh hùng giải phóng dân tộc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là một nhà yêu nước chân chính, một lãnh tụ kiệt xuất của thời đại; mà còn là một nhà dân chủ cách mạng của thế giới, mang khát vọng dân chủ và đấu tranh vì dân chủ. Kết tinh của Người là gắn bó giữa yêu nước, độc lập dân tộc, hòa bình, hữu nghị, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, Người luôn sử dụng phạm trù “dân chủ” gắn với các nhiệm vụ, mô hình, thể chế phát triển, thể hiện tinh thần dân chủ pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn với những hình thức phù hợp như: “cách mạng dân chủ nhân dân; chế độ dân chủ nhân dân; nhà nước ta là một nhà nước dân chủ; nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân; Dân chủ là mục tiêu và động lực cũng như bản chất của chế độ mới xã hội chủ nghĩa…”. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của dân chủ, của nhân dân, rằng đó là chìa khoá vạn năng để giải quyết các khó khăn do cách mạng đặt ra; Trong “Đường kách mệnh” , ấn hành 1927 Bác dạy “Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo làm thì phải xong”

Trong Di chúc của Bác, Người nhấn mạnh “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, từ tư tưởng đó của Bác: suy rộng ra có dân chủ mới có giàu mạnh, dân chủ là tiền đề, là tiên quyết, là động lực và mục tiêu của phát triển, của giàu mạnh và văn minh, của công bằng và nhân ái, của tự do và hạnh phúc. Có thể hiểu điều kiện cần ở đây là có Dân chủ mới có xã hội văn minh, công bằng, chân chính; điều kiện đủ là cách mạng dân chủ nhân dân và dân chủ; trong đó xây dựng nền dân chủ mới, là một quá trình lâu dài, nó gắn với quá trình cải biến xã hội cũ, quá độ và phấn đấu tiến lên Chủ nghĩa xã hội.

Dân chủ và phát triển thực tế là một tập hợp những tư tưởng và nguyên tắc về tự do; nó cũng bao gồm một tập hợp các thông lệ và các thủ tục đã được đúc kết lại từ quá trình lâu dài, thường không bằng phẳng của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa tự do. Cho nên dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, trình độ văn minh, vào các thể chế của Đảng cầm quyền, của bản chất nhà nước và cả truyền thống văn hoá, đạo đức của mỗi dân tộc; là môi trường chính trị, là nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá. Không dân chủ thì không phát huy được trí tuệ và sức mạnh toàn dân trong đổi mới và phát triển bền vững. Từ đó cũng có thể nói không thực hiện dân chủ thì không có công bằng, tự do và hạnh phúc; không có dân chủ thì không có phát triển và tiến bộ, dù rằng nó là quan hệ nhân – quả biện chứng.

Phát triển kinh tế thị trường – định hướng Xã hội chủ nghĩa, và “chủ động hội nhập quốc tế”, bên cạnh những thuận lợi, đất nước ta đang phải đối diện với những thách thức phức tạp từ biển đảo, từ vùng trời, từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu và những hiểm hoạ môi trường do phát triển tự phát. Với truyền thống yêu nước, mỗi người Việt Nam đều khát khao được góp phần mình vào nhiệm vụ chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Nói về kế hoạch xây dựng đất nước sau chiến tranh,.. trong Di chúc, một mặt Bác xác định “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp mà cũng rất vẽ vang”, Bác căn dặn: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Từ trải nghiệm trong hoạt động, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò nhân dân: Người dạy phải hiểu dân, giác ngộ và dựa vào dân, tin dân, trọng dân, phục vụ nhân dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân, quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tư tưởng nhân dân này cũng là tư tưởng dân chủ. Bao nhiêu lực lượng, bao nhiêu lợi ích đều ở nơi dân, khó bao nhiêu lần dân liệu cũng xong. Kháng chiến và kiến quốc đều nhờ nhân dân: dân tâm, dân lực, dân khí, dân trí, dân quyền, dân sinh.

Dân chủ rất nhạy cảm; chính vì vậy, trong Di chúc, Người nhắc nhở “phải thật thà đoàn kết”, thấm nhuần lời Bác, suy rộng ra cũng có thể nói phải thật thà dân chủ, thật sự dân chủ. Người căn dặn “Trong đảng thực hành dân chủ rộng rãi”. Đó là vấn đề gắn liền với chỉnh đốn đảng, bởi vì Đảng ta là Đảng cầm quyền, “Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Để có dân chủ rộng rãi, thật thà, thực sự; dân chủ trong đảng phải đi trước dân chủ ngoài xã hội và cả hai mặt kết hợp lẫn nhau. Đảng lãnh đạo xã hội và nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ tri thức, năng lực và phẩm chất để bổ nhiệm hoặc ứng cử vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Về vai trò công tác cán bộ và Đảng viên, Người khẳng định “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định.”

Ai cũng nhận ra là hệ thống hành chính của ta hiện nay nhiều tầng nấc, thủ tục hành chính nhiêu khê, có lúc bị quở trách là “hành dân”, “hành nhau” “Nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái” của cán bộ, cái mà ngày nay chúng ta nói là “tính năng động, sáng tạo”; Trong Sửa đổi lối làm việc Bác viết: “Chúng ta thường nêu vấn đề đó. Nhưng đến nay, cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó là vì lẽ gì?” và Bác trả lời: “Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực.

Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế.” Chỉ ra nguyên nhân Bác viết:

“Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra. Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” là khác.

Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác”.

2. Dân chủ có tổ chức và kỷ cương: Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.” Khi sáng kiến được công nhận, được nhân ra thì việc tốt, người tốt ngày càng nhiều hơn, nó góp phần lấn át cái xấu, cái tiêu cực. Sáng kiến theo Người cũng giản dị, Người viết:

“Sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực.

Chúng ta phải nhận rõ: bất kỳ việc to việc nhỏ, hễ thêm điều lợi, trừ điều hại cho quần chúng, giúp quần chúng giải quyết vấn đề khó khăn, tăng kết quả của việc làm, tăng sức sản xuất của xã hội, đánh đổ sức áp bức của quân thù, đó đều là sáng kiến…

Bất kỳ ai, nếu có quyết tâm làm ích lợi cho quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người.

Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm những việc ích lợi cho quần chúng. Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính “gặp chăng hay chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm.”

Trong thực tế, chúng ta cũng hay nói “phát huy dân chủ”, hoặc nói “dân chủ phải có lãnh đạo”, dân chủ gắn với kỷ cương… Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhưng trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, quyền làm chủ của nhân dân còn bị nhiều hạn chế, nguyên tắc tập trung lấn át dân chủ, chế độ quyết định tập thể lấn át sáng tạo cá nhân; dân chủ vẫn còn trừu tượng, hình thức; cấp trên bao cấp, áp đặt kiểu gia trưởng cho mọi suy nghĩ và hành động của cấp dưới, quyền lực nhà nước lấn át quyền lực xã hội. Chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh, tự chủ, tự chịu trách nhiệm; từ đó dân chủ kinh tế được thiết lập với cơ chế mới, dân chủ được xã hội mở rộng hơn trên nhiều lĩnh vực. Theo đó dân chủ hoá xã hội – dân chủ pháp quyền trên các lĩnh vực hình thành, cấu trúc các thành tựu dân chủ trước đây được bổ sung những nội dung mới. Như vậy qua đổi mới dân chủ có bước thay đổi về chất: cao hơn, sâu hơn và rộng rãi hơn; các quyền lực xã hội, quyền lực của nhân dân, quyền lực nhà nước, quyền tự do cá nhân được tôn trọng hơn. Tuy nhiên do có nhiều thành phần kinh tế và do cơ chế cạnh tranh khốc liệt của thị trường, đã xuất hiện nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Cho nên trước mỗi chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước trong xã hội có người đồng thuận, có người chưa nhất trí, có người không chấp nhận; Nếu dân vận trước đây là “giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ”, thì dân vận hiện nay là phải thuyết phục họ, vận động họ ủng hộ và làm theo chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật đã đề ra. Qui phạm pháp luật dù đúng đắn thì vẫn có một số người hoặc không ủng hộ, hoặc lưỡng lự, thậm chí phản đối nhưng nhà nước phải quản lý xã hội theo pháp luật, tổ chức Đảng và đảng viên cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Luật pháp nhà nước là quyền lực công đại diện tối thượng cho dân chủ của nhân dân. Vì vậy tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục là cần để mọi người tự giác, nhưng một khi đã vận động hết mức thì “cưỡng chế” cũng coi là dân chủ cao nhất của nhân dân nhằm duy trì kỷ cương dân chủ, nó là một trong những biện pháp dân vận của nhà nước.

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh, Người đã dành trọn để tranh đấu cho nền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân, những giá trị về độc lập dân chủ hiện nay, cha anh chúng ta phải mất bao công sức, xương máu mới giành được là vô cùng quý giá vì vậy phải được bảo vệ, giữ gìn. Chúng ta không cho phép bất cứ “Ai” lợi dụng, phá hoại chế độ dân chủ cũng như những giá trị dân chủ đã được xây dựng nên. Người nói: “Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân, như điều 38 dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã ghi rõ.

Trong chế độ ta, lợi ích của Nhà nước, của tập thể cùng lợi ích của cá nhân căn bản là nhất trí. Cho nên trong khi được hưởng những quyền lợi do Nhà nước và tập thể mang lại cho mình thì mọi người công dân phải tự giác làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với tập thể.

Vì vậy công dân có nghĩa vụ: tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng tài sản công cộng, đóng thuế theo pháp luật, làm nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc.”

Quyền làm chủ của một cá nhân không được đi ngược lại quyền làm chủ của các cá nhân khác và của cộng đồng. Xã hội dân chủ là một xã hội có trật tự kỷ cương, không phải là tự do ai muốn làm gì thì làm. Dân chủ đối lập với sự độc đoán, chuyên quyền, đồng thời cũng đối lập với sự hỗn loạn, tự do vô chính phủ. Cho nên dân chủ phải gắn liền với chuyên chính. Chuyên chính không phải là mục đích của dân chủ mà là phương tiện bảo vệ kỷ cương của nền dân chủ. Chuyên chính dân chủ nhân dân, để bảo vệ lợi ích của nhân dân; chống lại những kẻ đi ngược lại lợi ích, đi ngược lại chế độ dân chủ của nhân dân.

3. Công khai minh bạch, một trong những điều kiện cần của dân vận: Công khai và minh bạch đã trở thành một điều khoản mà Việt Nam cam kết với thế giới khi chủ động hội nhập, thì cũng chính phương châm này sẽ là phương tiện chủ yếu để giải bài toán phát huy dân chủ cơ sở thành công. Khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” từ lâu đã được nhấn mạnh như tư tưởng chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Công khai chính xác, rõ ràng, minh bạch là cơ sở cho dân biết để mà bàn, biết để tăng cường kiểm tra, giám sát, biết để cùng thực hiện. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng về mở rộng dân chủ, dân chủ trực tiếp được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của các tổ chức chính trị – xã hội. Thực tế cho thấy nơi nào thiếu công khai, nơi đó thường có khuất tất. Trong khi kêu gọi “khắc phục tình trạng quan liêu, sách nhiễu trong bộ máy chính quyền, phòng chống tiêu cực, lãng phí, hoàn thiện các chính sách, cơ chế, giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả các bức xúc của người dân về công tác quy hoạch, thu hồi đất, bồi thường, tái định cư…” . Thì tại hội nghị tổng kết năm 2006 và triển khai kế hoạch thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở năm 2007, Trưởng ban Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh nhận xét rằng ở nhiều nơi, những việc công khai cho dân biết và một số việc dân bàn còn mang tính hình thức. Một vấn đề mất nhiều sức hiện nay là “Người dân khiếu kiện”, khiếu kiện kéo dài chính là sự không minh bạch về chức trách, nhiệm vụ, dẫn đến hiện tượng “trái banh trách nhiệm” được chuyển đi chuyển lại từ cơ quan này sang đơn vị khác, “cấp dưới đẩy lên, cấp trên đẩy xuống” trở nên phổ biến trong quá trình giải quyết các khiếu nại của công dân.

Một mặt dù cố gắng “phát huy dân chủ cơ sở”, nhưng mặt khác những quy định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của người dân cũng chưa rõ. Lãnh đạo phê phán cơ sở thì nhiều, nhưng có bao giờ lãnh đạo chỉ đạo xử lý nghiêm minh đúng luật pháp những trường hợp điển hình của khiếu kiện vô lý, thậm chí vu khống, tố cáo bôi nhọ cán bộ cơ sở? Trong một chừng mực, chính sự thiếu kiên quyết đó đã tạo nên “dân chủ quá trớn”, làm cho luật pháp không nghiêm.

Ngày nay thông tin là tiền, là vốn, là quyền lực. Nộp thuế để nuôi bộ máy nhà nước, nhưng công dân không biết mình được quyền gì, nghĩa vụ ra sao thì khác nào đứa trẻ luôn bị “cầm tay chỉ việc”. Vì vậy, công khai và minh bạch phải trở thành một đòi hỏi tất yếu của quản lý nhà nước. Những năm qua ở cơ sở đã cố gắng làm tốt việc công khai thông qua nhiều hình thức, nhiều kênh thông tin khác nhau, kể cả việc tổ chức cơ cấu lại qui mô các Khu phố, tổ dân phố, là những tổ chức cầu nối giữa chính quyền với nhân dân, nhưng trong đời sống pháp luật thỉnh thoảng cũng có những cú “giật gân” của báo chí làm cho tình hình nóng thêm. “Sai sót trong tác nghiệp” biết rằng không ai muốn; nhưng cải chính, đính chính cho “đàng hoàng” càng hiếm hoi. Ai chịu trách nhiệm cho những cú “giật gân” được giải thích là “vô tình” đó, và đằng sau nó là gì ? hậu quả của nó chẳng lẽ chỉ có cơ sở chịu trách nhiệm? Ai cũng biết công chức hưởng lương nhưng ít người chỉ sống bằng lương, đang gây bất ổn cho các mối quan hệ bình thường trong xã hội. Khi đã xác định công chức là “công bộc” của nhân dân, thì câu hỏi đặt ra là làm sao khơi dậy niềm vui công việc trong mỗi công chức? Ngoài việc khuyến khích tinh thần yêu nước, phục vụ nhân dân, các truyền thống đáng quý của cán bộ, công chức thì các biện pháp hành chính, kinh tế cũng cần được coi trọng như xây dựng mức lương tối thiểu hợp lý cho đội ngũ công chức, lựa chọn công chức phải thông qua thi tuyển công khai, có chính sách đảm bảo sự thăng tiến của họ dựa trên tiêu chuẩn khách quan như thành tích, đóng góp, thời gian công tác và được phát triển trên cơ sở tính công khai và tính trách nhiệm… Những điều đó có phần tác động đến kết quả của công tác dân vận.

4. Dân vận là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị: Lãnh đạo thường khuyên cán bộ công chức của mình “Lương của chúng ta, phương tiện làm việc của chúng ta là do nhân dân đóng góp thông qua việc nộp thuế, và phân phối lại của ngân sách nhà nước, vì vậy ngoài việc yêu nghề, yêu dân chúng ta phải có trách nhiệm với nhân dân”. Nhưng trách nhiệm công chức phục vụ nhân dân hiện nay vẫn là một khái niệm trừu tượng bởi các qui chế công vụ, qui trình công việc và hệ thống thủ tục hành chính vừa thiếu, vừa thừa và hết sức rối rắm. Việc này những năm gần đây mặc dù Đảng, Chính phủ có nhiều cải tiến, nhưng dường như vẫn còn thiếu nhiều qui định cần thiết cho vận hành công vụ trôi chảy, trong khi cơ chế chính sách đối với cán bộ Phường xã, những người hàng ngày tiếp xúc vận động nhân dân thì thiếu đồng bộ, thu nhập thấp và còn phân biệt đối xử giữa cán bộ Phường với công chức Quận, Thành phố, Trung ương rất bất hợp lý vừa gây so bì vừa sinh tư tưởng; các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, hưu trí thì là sự ban phát, “xin – cho”. Trách nhiệm người đứng đầu cơ sở càng nặng nề hơn nhưng quyền thi hành công vụ phải “đi xin” từ việc tuyển dụng, đào tạo cho đến phân công, bố trí; còn xử lý khi cán bộ công chức có sai sót gần như người sử dụng cán bộ hoàn toàn “bó tay” vậy thì làm sao phát huy trách nhiệm. Trách nhiệm chỉ có ý nghĩa khi nó gắn với quyền, bổn phận và nghĩa vụ; Cơ chế dân chủ cơ sở được hình thành từ tình huống xuất hiện những “điểm nóng” và bắt đầu phát huy tác dụng của nó… Trong Sửa đổi lối làm việc Bác viết “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc.”

Nhưng, áp dụng pháp luật không có “miễn là được việc” còn nhiều vấn đề mới đặt ra từ trong cơ chế vận hành của luật pháp; cơ chế mà ở đó giữa “sáng kiến, năng động và làm trái văn bản pháp luật” chưa có một qui phạm rõ ràng, nên ranh giới “đúng sai” khó phân định. Làm kinh tế tư nhân “may mắn họ hưởng, rủi ro họ chịu”, làm cán bộ công chức; muốn có tâm, có tầm phải dám kết hợp hài hoà giữa quyền và trách nhiệm, kết quả công vụ với lợi ích của sự phát triển xã hội vì lợi ích của nhà nước và nhân dân.

Khi xem xét trách nhiệm “thực thi dân chủ, sáng tạo công vụ và sai sót của công chức”; tập thể, lãnh đạo ít khi lưu ý rằng “sáng tạo bao giờ cũng bắt đầu từ thiểu số” rồi khi thực tiễn công nhận nó mới thành đa số, mà cơ chế xem xét nó là tập thể, cho nên “thân phận” của sáng tạo, của thiểu số nhiều khi gặp khó khăn nguy hiểm. Sáng tạo, vì vậy chỉ có thể phát triển tốt trong môi trường mà ở đó có sự ổn định xã hội, sự hoà thuận trong cộng đồng, trong cơ quan. Xã hội rối loạn, tập thể đố kỵ, kèn cựa thì không ai muốn nghĩ ra điều mới – mà có nghĩ cũng không dám làm. Rồi phải có môi trường tôn vinh, sử dụng và đãi ngộ đúng mức người có tài, có tâm. Sử dụng người tài hiệu quả không chỉ là đãi ngộ mà phải tạo điều kiện cho người ta làm việc, tạo cho họ cơ hội để thi thố tài năng. Nhận diện người có tài, có tâm trong hiệu quả công việc chứ không phải trên bằng cấp.

Trên thực tế sáng tạo bao giờ cũng là phủ định một phần cái cũ, thậm chí là toàn bộ. Nhưng phủ định cái cũ lại động chạm đến cơ chế và con người hiện hành, con người đang nắm quyền hành, do đó sự phức tạp chính là ở mối quan hệ con người. Biết dùng người tài và dám dùng người tài chính là phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý giỏi. Vì vậy lãnh đạo giỏi là người phải biết sử dụng những người có năng lực và có lòng tự trọng. Nhưng muốn sử dụng người tài phải có cơ chế hợp lý. Chủ nghĩa bình quân, xếp hàng và đến hẹn lại lên sẽ khiến cho người tài không còn ý chí phấn đấu, sáng tạo. Cơ chế hiện nay vẫn còn nhiều cơ hội cho những kẻ trì trệ, những người trung bình yên ổn. Nếu họ không phạm khuyết điểm gì thì hàng tháng vẫn lĩnh lương đều, đến niên hạn lại lên lương, khen thưởng, thậm chí có số phiếu tín nhiệm cao và nếu chỉ có như vậy chắc chắn không thể tạo động lực thúc đẩy dân chủ xã hội phát triển. Trong cuộc sống chúng ta cũng không ít trường hợp “sai – oan” rất khó lý giải. Cho nên một đòi hỏi bức thiết dân chủ và dân vận không chỉ sát dân, gần dân mà phải sát cán bộ, sát cơ sở, sát thực tế có môi trường và cơ chế kiểm soát, đánh giá khách quan tinh thần trách nhiệm và sự giải trình công vụ khi nghi ngờ sai sót; có được những điều đó: dân chủ, trách nhiệm và sáng tạo sẽ được phát huy, chủ trương, chính sách phát luật khả thi, sát thực tế. Một thực tế dễ thấy của vấn đề này chính là chính sách đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai, quyền sở hữu tài sản và các thủ tục liên quan qui hoạch, quản lý đầu tư xây dựng đang diễn ra trong phạm vi cả nước hiện nay. Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vì vậy muốn kỷ cương của nhà nước pháp quyền được thượng tôn thì việc các cơ quan ban hành pháp luật trước tiên phải thực sự dân chủ, tức là “phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt”; tức là không chỉ viên chức thừa hành mà viên chức, cơ quan ban hành “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”; đừng ra lệnh rồi bỏ mặc cho người thừa hành – hãy nhớ rằng cơ sở chính là nền móng của mọi cấu trúc; nhiều cơ sở suy yếu thì cấu trúc bên trên cũng khó bền vững. Dù được bầu hay bổ nhiệm thì công chức cũng phải hoạt động và làm việc nhân danh nhà nước và luôn phải chịu trách nhiệm cho các hành động của họ trước nhân dân. Theo chúng tôi trách nhiệm dân vận là của tất cả mọi người trong hệ thống chính trị, nhưng để phát huy trách nhiệm phục vụ nhân dân của các cơ quan và công chức nhà nước trong bộ máy công quyền, nhất là ở cơ sở thì việc phân công, phân cấp phải hết sức rõ ràng và thống nhất, chúng ta vì nhân dân, cán bộ công chức ở cơ sở cũng không là gì khác hơn – trước hết là họ là nhân dân. Đó là một liên kết, một cách thức sống và làm việc cùng nhau. Đó là một quá trình luôn phát triển chứ không đứng im. Nó đòi hỏi sự hợp tác và trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý với người chịu quản lý và công dân, phải cùng chia sẻ với nhau các thành quả cũng như khó khăn.

Sáu mươi năm trước Bác Hồ của chúng ta đã khẳng định “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Dân vận khéo trong xã hội dân chủ là một điều khó khăn chứ không dễ dàng, “không phải chỉ nói suông”, mà mỗi cán bộ, công chức trong thi hành nhiệm vụ Đảng và nhà nước giao cần “có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”, phải thực sự thực hành dân chủ rộng rãi, đảm bảo kỷ cương pháp luật, mở rộng công khai với thông tin minh bạch, nhanh nhạy, chính xác; bằng trách nhiệm cao nhất trước dân, cũng như tinh thần cộng đồng trách nhiệm chia sẻ khó khăn của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ vượt qua và vượt lên; bởi vì Dân vận khéo không phải vấn đề kỷ xảo, mà là quá trình gắn kết ý Đảng lòng dân./.

Gò Vấp, ngày 23/9/2009

TRƯƠNG VĂN NON

[1] Bài đăng trên tạp chí Dân Vận, tạp chí nghiên cứu lý luận và hướng dẫn nghiệp vụ của ban Dân Vận Trung Ương, số tháng 11/2010, trang 27-29.

[2] Báo Sự thật, ngày 15/10/1949. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội – 2000 tập 5, trang 698-700.

[3] Tác phẩm Bác viết in lần đầu tiên năm 1927 tại Quảng Châu – Sđd – Tập 2, Trang 257-318

[4] Di chúc Hồ Chí Minh, Sđd – Tập 12, trang 497-512

[5] Tác phẩm Bác viết tháng 10/1947 – Sđd – Tập 5, trang 229-306.

[6] Báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá I. Sđd, tập 9, trang 593-594

[7] Chương trình hành động công tác vận động nhân dân giai đoạn 2006 – 2010 của Thành ủy- TP. Hồ Chí Minh